28 tháng 2, 2011

Trẻ em ăn mặn dễ béo phì

Các nhà nghiên cứu Anh đã khẳng định điều đó khi tiến hành nghiên cứu thói quen ăn uống của 1600 trẻ em từ 4-18 tuổi.
Kết quả là những đứa trẻ ăn nhiều muối thì thường thèm đồ uống ngọt, đồ uống có gas và chính điều này khiến cho chúng dễ mắc bệnh béo phì hơn.
Không chỉ với trẻ em mà ngay cả người lớn cũng có thể mắc bệnh béo phì nếu có thói quen ăn mặn. Giải thích cho hiện tượng này, các nhà nghiên cứu Anh cho rằng: ăn nhiều muối có xu hướng làm cho cơ thể cảm thấy khát, từ đó thèm uống nước. Với trẻ em, chúng thường thích những đồ uống có đường, có gas như Pepsi hay Cocacola... Đồng thời, nếu cơ thể có quá nhiều muối, muối có tác dụng giữ nước, sẽ khiến cho cơ thể tăng trọng lượng một cách nhanh chóng.
Trung bình cứ 5 trẻ em ở Anh thì có 1 trẻ em mắc bệnh béo phì. Nếu không có chế độ ăn uống và luyện tập, khi trưởng thành những đứa trẻ này có nguy cơ trở thành những người lớn “béo phì” với những vấn đề về tim mạch, dễ dẫn đến đột quị và tử vong.
Nếu mỗi đứa trẻ giảm một nửa lượng muối chúng ăn hàng ngày (tương đương 3g/ngày) thì chúng sẽ giảm được 2 lần “khả năng” thèm đồ ngọt (tương đương với 250 calo) mỗi tuần. Nếu tiếp tục giảm 10-20% lượng muối mỗi ngày, những đứa trẻ này có thể sẽ chẳng bao giờ quan tâm tới những đồ uống có gas hay đồ uống dễ gây béo.
Graham McGregor, giáo sư kiêm chủ tịch công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của muối với sức khoẻ con người cho biết: “Thật ko may là một số đồ ăn dành cho trẻ em lại cần phải có muối, nếu ko thì chúng rất khó ăn hoặc ko thể ăn được. Và vì hầu như các sản phẩm này đều được sản xuất theo qui trình công nghiệp có sẵn. Do đó lượng muối có trong đó cao gần như là lượng muối có trong nước biển. Dù bạn có ăn gì, theo cách nào thì việc ăn nhiều muối đều không tốt cho sức khoẻ, nhất là trẻ em”.


Theo lời khuyên của giáo sư thì nguồn muối đưa vào cơ thể trẻ em chủ yếu là từ bánh mì và ngũ cốc, cho nên trong khi các nhà sản xuất thực phẩm đang tìm cách giảm lượng muối ở những đồ ăn này thì các bậc phụ huynh nên kiểm tra lượng muối có trên bao bì sản phẩm để chọn lựa thức ăn phù hợp cho trẻ, hạn chế lượng muối khi chế biến thức ăn cho chúng. Bản thân đứa trẻ cũng cần có ý thức trong ăn uống, ko nên ăn mặn tránh béo phì đề phòng các vấn đề về tim mạch khi trưởng thành.

____________________________________________
Bạn từng có vấn đề về sức khỏe như Huyết áp, tiểu đường, tim mạch, sỏi thận – sỏi mật, gút, viêm loét, thần kinh tọa, tai biến, ung thư …

Bạn từng mệt mỏi vì điều trị tại các Chuyên khoa- Bệnh viện lớn, Tốn rất nhiều tiền, dùng thuốc Đông – Tây Y nhưng kết quả vẫn không được như mong đợi.

Hãy một lần thử với dòng sản phẩm NONI JUICE của tập đoàn Quốc Tế TAHITIAN NONI INTERNATIONAL của Mỹ.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ BẠN CÓ MỘT SỨC KHỎE TUYỆT HẢO VÀ KHÔNG BAO GIỜ CÒN PHẢI LO LẮNG VỀ BỆNH TẬT CỦA MÌNH NỮA – SẢN PHẨM NONI JUICE CỦA TẬP ĐOÀN QUỐC TẾ TAHITIAN NONI SẼ GIÚP ĐƯỢC CHO BẠN. Mời vào xem ngay: http://www.BiQuyetSucKhoeTuyetHao.com
Đọc tiếp →

27 tháng 2, 2011

Ti vi và bệnh tiểu đường


Cuộc nghiên cứu đã phân tích lối sống của hơn 68.000 phụ nữ trong khoảng thời gian 6 năm, đặc biệt trọng tâm là mức độ “hoạt động thể chất” và “lối sống ngồi một chỗ” như xem tivi hơn 10 tiếng mỗi tuần.

Những người tham gia nghiên cứu đều không mắc tiểu đường, ung thư, bệnh về tim mạch và đều có chỉ số BMI dưới 30. (BMI là chỉ tiêu đánh giá trọng lượng cơ thể để biết có nguy cơ mắc bệnh béo phì hay không. BMI ≥ 30 đều có nguy cơ mắc bệnh béo phì).

Trong suốt quá trình nghiên cứu, có hơn 3.700 phụ nữ bị mắc béo phì, và có khoảng 1.500 trường hợp được chẩn đoán là mắc tiểu đường tuýp 2.


Nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người dành ít nhất 3 giờ mỗi ngày để xem tivi thì tăng 40% nguy cơ mắc béo phì và tăng 30% mắc tiểu đường tuýp 2 so với những người chỉ xem ít hơn 2 giờ mỗi ngày.

Những người dành hơn 5 giờ mỗi ngày để xem tivi thì có nguy cơ mắc béo phì lên 50% và tiểu đường là 70%.

Theo các nhà nghiên cứu của trường Harvard về sức khoẻ thì những người có lối sống ngồi một chỗ như làm việc cả ngày trên bàn máy vi tính có nguy cơ cao mắc tiểu đường và béo phì.

Nếu chỉ cần đứng hoặc đi lại ít nhất 2 giờ mỗi ngày thì sẽ giảm mắc béo phì 9% và tiểu đường là 12%. Và nếu bạn đi bộ nhanh mỗi ngày 1 tiếng thì sẽ giảm 24% nguy cơ mắc bệnh béo phì và 34% bệnh tiểu đường.

Nếu ngồi xem tivi với thời gian quá lâu cộng thêm với thói quen ăn uống không hợp lý như ăn nhiều đồ ăn có chất béo bão hoà cao và thức ăn chứa calo thì bạn sẽ không nằm ngoài danh sách báo động về tình trạng mắc bệnh béo phì và tiểu đường đâu.

Điều đó có nghĩa là nếu bạn thay đổi lối sống ngồi một chỗ có nghĩa là cắt giảm được nguy cơ mắc bệnh cho bạn rất nhiều. 

_______________________________________
Bạn từng có vấn đề về sức khỏe như Huyết áp, tiểu đường, tim mạch, sỏi thận – sỏi mật, gút, viêm loét, thần kinh tọa, tai biến, ung thư …

Bạn từng mệt mỏi vì điều trị tại các Chuyên khoa- Bệnh viện lớn, Tốn rất nhiều tiền, dùng thuốc Đông – Tây Y nhưng kết quả vẫn không được như mong đợi.

Hãy một lần thử với dòng sản phẩm NONI JUICE của tập đoàn Quốc Tế TAHITIAN NONI INTERNATIONAL của Mỹ.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ BẠN CÓ MỘT SỨC KHỎE TUYỆT HẢO VÀ KHÔNG BAO GIỜ CÒN PHẢI LO LẮNG VỀ BỆNH TẬT CỦA MÌNH NỮA – SẢN PHẨM NONI JUICE CỦA TẬP ĐOÀN QUỐC TẾ TAHITIAN NONI SẼ GIÚP ĐƯỢC CHO BẠN. Mời vào xem ngay: http://www.BiQuyetSucKhoeTuyetHao.com


Đọc tiếp →

26 tháng 2, 2011

Béo… cũng có kiểu

Bạn đang cố gắng hết sức để giảm cân nhưng không được kết quả như mong muốn.
Bạn băn khoăn không biết tại sao? Thật đơn giản, hãy xem mình thuộc “kiểu” béo phì nào dưới đây để tìm ra được nguyên nhân và biện pháp chữa trị cụ thể.
Có 3 loại béo phì, đó là: béo phì do di truyền, béo phì thông thường và béo phì bệnh lý.

1. Béo phì do di truyền
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nếu tiền sử gia đình có người mắc bệnh béo phì thì con cái cũng rất dễ mắc bệnh béo phì. Tỉ lệ này là 60 - 70%.
Ngoài ra thói quen sinh hoạt và ăn uống hàng ngày không hợp lý trong gia đình cũng là nguyên nhân gây nên bệnh béo phì cho các thành viên và các thế hệ con cháu.
Giải pháp: Nếu gia đình bạn có người mắc bệnh béo phì, hãy nghĩ đến khả năng mình cũng sẽ mắc phải căn bệnh này. Hãy sớm đề ra cho mình một kế hoặch ăn uống, sinh hoạt và luyện tập hợp lý để giữ cho cơ thể luôn khỏe mạnh.

 2. Béo phì thông thường
Loại béo phì này chiếm tỷ lệ đa số trong các “kiểu” béo phì. Nguyên nhân chủ yếu của dạng béo phì này là do thói quen ăn uống và sinh hoạt thiếu khoa học.
Những người mắc bệnh béo phì này thường có thói quen ăn nhiều đồ ngọt, các loại thức ăn có hàm lượng chất béo cao, nhiều năng lượng, chất đạm nhưng lại lười vận động và thể dục. Lượng chất dinh dưỡng dư thừa không được tiêu hóa hết là nguyên nhân gây nên sự hình thành và tích tụ của các tế bào mỡ trong cơ thể.
Phụ nữ sau khi sinh, trẻ em ít vận động là những đối tượng thường gặp ở dạng béo phì này.
Giải pháp: Béo phì thông thường có thể kiểm soát được bằng cách xây dựng một chế độ ăn uống, luyện tập hợp lý.
- Nên tăng cường vận động, hạn chế thói quen ngồi hoặc nằm quá lâu.
- Ăn uống hợp lý bằng cách giảm lượng thức ăn chứa nhiều chất béo, đường, các loại đồ uống có chất kích thích.
- Ăn nhiều rau xanh và hoa quả hàng ngày.
- Không nên nhịn ăn hoặc thay đổi khẩu phần ăn một cách đột ngột.
Hạn chế lượng thức ăn đưa vào cơ thể nhưng vẫn phải đảm bảo việc bổ sung đầy đủ lượng protein và các khoáng chất thiết yếu cho cơ thể.
- Không nên tự ý tìm tới sự giúp đỡ của các loại thuốc giảm béo khi chưa có lời khuyên của bác sỹ.
3. Béo phì bệnh lý
Dạng béo phì này xuất hiện khi cơ thể mắc phải một số bệnh tật nào đó. Những người mắc các bệnh như gút, tiểu đường ở thời kỳ đầu, huyết áp cao, rối loạn công năng tuyến giáp… thường dễ mắc phải bệnh béo phì.
Nhiều người khi dùng thuốc kết hợp điều trị một căn bệnh nào đó cũng có thể có các tác dụng phụ tăng khả năng mắc bệnh béo phì.
Lời khuyên duy nhất cho việc chữa trị bệnh béo phì ở dạng này là hãy tìm tới bác sỹ để có được phương giáp giảm cân hợp lý nhất mà không để ảnh hưởng tới sức khỏe.
______________________________________________
Bạn từng có vấn đề về sức khỏe như Huyết áp, tiểu đường, tim mạch, sỏi thận – sỏi mật, gút, viêm loét, thần kinh tọa, tai biến, ung thư …

Bạn từng mệt mỏi vì điều trị tại các Chuyên khoa- Bệnh viện lớn, Tốn rất nhiều tiền, dùng thuốc Đông – Tây Y nhưng kết quả vẫn không được như mong đợi.

Hãy một lần thử với dòng sản phẩm NONI JUICE của tập đoàn Quốc Tế TAHITIAN NONI INTERNATIONAL của Mỹ.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ BẠN CÓ MỘT SỨC KHỎE TUYỆT HẢO VÀ KHÔNG BAO GIỜ CÒN PHẢI LO LẮNG VỀ BỆNH TẬT CỦA MÌNH NỮA – SẢN PHẨM NONI JUICE CỦA TẬP ĐOÀN QUỐC TẾ TAHITIAN NONI SẼ GIÚP ĐƯỢC CHO BẠN. Mời vào xem ngay: http://www.BiQuyetSucKhoeTuyetHao.com
Đọc tiếp →

25 tháng 2, 2011

Nguyên nhân và hậu quả bệnh béo phì

Béo phì không hề có dấu hiệu giảm đi trong những năm gần đây, đã có cảnh báo rằng nếu không hành động hữu hiệu để ngăn chặn căn bệnh này thì chúng sẽ trở nên một vấn đề nghiêm trọng trong thập niên tới.
1. Các yếu tố nguy cơ thừa dinh dưỡng
Yếu tố dinh dưỡng
Thức ăn cung cấp năng lượng cho cơ thể dưới dạng gluxit, lipit, protein. Sau khi chuyển hoá, khong trên dưới 50% năng lượng biến thành nhiệt lượng để duy trì thân nhiệt, 45% năng lượng biến thành năng lượng hoá học cung cấp cho sự hoạt động cần thiết của các tổ chức tế bào sống. Khẩu phần ăn giầu năng lượng vượt quá năng lượng tiêu hao tạo nên một cân bằng dưng tính và phần dư thừa được chuyển thành mỡ tích trữ trong các tổ chức. Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi trẻ em ăn vào một lượng calo quá nhiều so với nhu cầu sẽ gây nên bệnh béo phì do sự tăng bất thường của các tế bào mỡ.
Chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc của gia đình đối với trẻ cũng góp phần tạo nên những hành vi, thói quen ăn uống không hợp lý ngay từ khi còn nhỏ.
Béo phì do nguyên nhân dinh dưỡng chiếm 60 - 80% các trường hợp. Do vậy, việc nghiên cứu tìm ra các yếu tố tác động vào quá trình này là rất cần thiết nhằm đưa ra các khuyến cáo về dinh dưỡng hợp lý.
Hoạt động thể lực
Sự thay đổi mấu chốt của tiêu hao năng lượng ở mỗi cá thể là hoạt động thể lực. Hoạt động thể lực làm tăng quá trình phân gii mỡ ở những người béo phì. cơ bắp mang một đặc điểm quan trọng là có thể dùng chất béo làm nhiên liệu, trong khi não và hệ thần kinh không thể làm như vậy.
Hoạt động thể lực không chỉ làm giảm cân cho người béo mà đúng hn là giúp cơ thể điều hoà kiểm soát thể trọng và điều chỉnh nó tuỳ thuộc vào thể tạng của mỗi người. Tập luyện điều độ làm tăng cường cơ bắp, chế độ dinh dưỡng hợp lý giúp giảm cân có hiệu qu và tác động tốt đến khả năng tận dụng chất béo của c, dần dần thể trọng và tỷ lệ chất béo được phục hồi ở mức cân đối tự nhiên. Chính vì vậy cần khuyến khích và tạo điều kiện để tăng cường hoạt động thể lực trong cộng đồng.
Yếu tố kinh tế - xã hội
- Kinh tế xã hội
- Kinh tế hộ gia đình
- Học thức
- Phong tục, dân tộc, tôn giáo
- Môi trường địa lý
Yếu tố di truyền
Yếu tố di truyền có vai trò nhất định trong béo phì nhưng vẫn là vấn đề còn đang được bàn cãi. Nền tng của thuyết di truyền dựa trên 2 quan sát: thực nghiệm và huyết thống gia đình.
Các nhà khoa học đã cố gắng xác định xem béo phì có tính chất gia đình là do di truyền hay do môi trường và hiện nay người ta đã có những bằng chứng kết luận rằng béo phì thường do yếu tố môi trường tác động lên những cá thể khuynh hướng di truyền.


Yếu tố nội tiết, chuyển hoá
Các rối loạn chuyển hoá trong cơ thể như rối loạn hoạt động của một số hệ enzym trong cơ thể hay rối loạn hoạt động của các tuyến nội tiết như tuyến giáp (suy giáp), tuyến yên (thiếu hoócảmon tăng trưởng), tuyến thượng thận (cushing),... cũng là những nguyên nhân gây béo phì. Tuy nhiên, béo phì do nguyên nhân này chỉ chiếm một tỷ lệ không nhiều, khong 20% các trường hợp.
2. Vai trò các chất dinh dưỡng và rối loạn chuyển hoá khi thừa dinh dưỡng
- Vai trò các chất dinh dưỡng (có bài riêng)
- Rối loạn chuyển hoá khi thừa dinh dưỡng
3. Những hậu quả đối với sức khỏe của người thừa dinh dưỡng
Béo phì
Béo phì là một tình trạng sức khoẻ có nguyên nhân dinh dưỡng. Thông thường một người trưởng thành khoẻ mạnh, dinh dưỡng hợp lý, cân nặng của họ đứng yên hoặc dao động trong giới hạn nhất định.
Béo phì không tốt đối với sức khoẻ, người càng béo thì các nguy cơ mắc bệnh càng nhiều. Trước hết, người béo phì dễ mắc các bệnh tăng huyết áp, bệnh tim do mạch vành, đái đường...
Tăng huyết áp và bệnh mạch não
Yếu tố nguy cơ chính của tai biến mạch não là tăng huyết áp. Các nghiên cứu đều cho thấy mức huyết áp tăng lên song song với nguy cơ các bệnh tim mạch do mạch vành và tai biến mạch não. Trong các nguyên nhân gây tăng huyết áp, trước hết người ta thường kể đến lượng muối trong khẩu phần.
Theo một số tác gi, tăng lượng canxi trong khẩu phần có nh hưởng làm giảm huyết áp. Một lượng cao lipit và các axit béo bão hoà trong khẩu phần cũng dẫn đến tăng huyết áp. Ăn quá nhiều protein làm tăng nguy cơ tăng huyết áp và thúc đẩy tiến triển các bệnh của mạch máu, đặc biệt ở thận. Uống quá nhiều rượu, cũng liên quan với tăng huyết áp. Thường thường, huyết áp ở người ăn chế độ thực vật thấp hn và khi chuyển từ chế độ ăn nhiều thịt sang chế độ ăn thức ăn nguồn gốc thực vật thì huyết áp giảm.
Bệnh mạch vành
Bệnh tim do mạch vành là vấn đề sức khoẻ cộng đồng quan trọng ở các nước phát triển, chiếm hàng đầu trong các nguyên nhân gây tử vong.
Theo sự hiểu biết hiện nay ba yếu tố nguy cơ đã được xác định, đó là: hút thuốc lá, tăng huyết áp và hàm lượng cholesterol trong máu cao.
Cholesterol là một chất sinh học có nhiều chức phận quan trọng, một phần được tổng hợp trong cơ thể, một phần do thức ăn cung cấp.
Ung thư: Mặc dù nguyên nhân của nhiều loại ung thư còn chưa biết rõ nhưng người ta ngày càng quan tâm tới mối liên quan giữa chế độ ăn uống với ung thư. Nhiều chất gây ung thư có mặt trong thực phẩm, đáng chú ý nhất là các aflatoxin và nitrosamin.
Nhiều loại phẩm màu thực phẩm và chất gây ngọt như cyclamat cũng có kh năng gây ung thư thực nghiệm, do đó các quy định vệ sinh về phẩm màu, các chất phụ gia...
Đái đường không phụ thuộc insulin
Đái đường không phụ thuộc insulin là một rối loạn chuyển hoá mạn tính làm mất kh năng sử dụng glucoza của cơ thể thu được từ các cacbohydrat, từ các cơ quan dự trữ glycogen hoặc protein có trong cơ thể và chế độ ăn.
Béo phì là nguy cơ chính của bệnh đái đường không phụ thuộc insulin, nguy cơ này càng tăng lên theo thời gian và mức độ béo. Có đến 80% bệnh nhân mắc bệnh này là những người béo. Chế độ ăn thực vật nhiều rau, giảm acid béo no, giảm cholesterol và đường có tác dụng bo vệ.
4. Chỉ số BMI và cách phân loại béo phì theo WHO.
Trong nghiên cứu cộng đồng người ta thường sử dụng các chỉ tiêu cân nặng, chiều cao, bề dày lớp mỡ dưới da để đánh giá tình trạng thừa cân, béo phì.
 Đối với trẻ em:
Theo khuyến cáo của tổ chức y tế thế giới, trong các điều tra sàng lọc nên sử dụng chỉ tiêu cân nặng theo chiều cao để xác định tình trạng béo phì vì đa số cá thể có cân nặng theo chiều cao vượt quá giới hạn bình thường đều béo. Giới hạn " ngưỡng" để được coi là thừa cân là khi chỉ tiêu cân nặng theo chiều cao trên + 2SD và được chia thành các mức độ như sau:
- W/ H từ + 2SD đến + 3SD : Thừa cân độ 1 (nhẹ).
- W/ H từ + 3SD đến + 4SD : Thừa cân độ 2 (trung bình).
- W/ H >= + 4SD : Thừa cân độ 3 (nặng).
 Đối với trẻ vị thành niên:
Từ năm 1995, Tổ chức Y tế thế giới quy ước dùng chỉ số khối cơ thể (BMI: Body Mass Index) để đánh giá tình trạng dinh dưỡng cho lứa tuổi này.
Dựa vào chỉ số BMI theo tuổi, người ta đánh giá thừa cân và béo phì như sau:

- Thừa cân: BMI >= 85th percentile.
- Béo phì: BMI >= 85th percentile và bề dày lớp mỡ dưới da cơ tam đầu, bề dày lớp mỡ dưới da ở dưới xưng b vai đều >= 90th percentile.
Đối với người trưởng thành: Sử dụng chỉ số khối cơ thể (BMI) để nhận định tình trạng béo phì vì chỉ số này có liên quan chặt chẽ với tỷ lệ khối mỡ trong cơ thể.
Để đánh giá mức độ thừa cân, béo phì, tổ chức Y tế thế giới chia ra các "ngưỡng" như sau:
Bình thường: BMI từ 18,5 - 24,99
Thừa cân độ 1: BMI từ 25,0 - 29,99
Thừa cân độ 2: BMI từ 30,0 - 39,99
Thừa cân độ 3: BMI >= 40,0
Ngoài ra, để đánh giá sự phân bố mỡ trong cơ thể, người ta còn đo thêm chỉ số vòng thắt lưng (Waist Circumference) và chỉ số vòng thắt lưng / vòng mông (Waist - Hip ratio) với các "ngưỡng" như sau:
- Ở nam: Tỷ số vòng thắt lưng/ vòng mông > 1,0
Vòng thắt lưng >= 94 cảm
- ở nữ: Tỷ số vòng thắt lưng/ vòng mông > 0,85
Vòng thắt lưng >= 80 cảm

___________________________________
Bạn từng có vấn đề về sức khỏe như Huyết áp, tiểu đường, tim mạch, sỏi thận – sỏi mật, gút, viêm loét, thần kinh tọa, tai biến, ung thư …

Bạn từng mệt mỏi vì điều trị tại các Chuyên khoa- Bệnh viện lớn, Tốn rất nhiều tiền, dùng thuốc Đông – Tây Y nhưng kết quả vẫn không được như mong đợi.

Hãy một lần thử với dòng sản phẩm NONI JUICE của tập đoàn Quốc Tế TAHITIAN NONI INTERNATIONAL của Mỹ.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ BẠN CÓ MỘT SỨC KHỎE TUYỆT HẢO VÀ KHÔNG BAO GIỜ CÒN PHẢI LO LẮNG VỀ BỆNH TẬT CỦA MÌNH NỮA – SẢN PHẨM NONI JUICE CỦA TẬP ĐOÀN QUỐC TẾ TAHITIAN NONI SẼ GIÚP ĐƯỢC CHO BẠN. Mời vào xem ngay: http://www.BiQuyetSucKhoeTuyetHao.com
Đọc tiếp →

24 tháng 2, 2011

Chế độ ăn trong bệnh béo phì

Hiện nay tình hình thừa cân và béo phì đang tăng lên với một tốc độ báo động không những ở các nước phát triển mà ở cả các nước đang phát triển. Đây thật sự là mối đe doạ tiềm ẩn trong tương lai. ở các nước đang phát triển béo phì tồn tại song song với thiếu dinh dưỡng, gặp nhiều ở thành phố đang phát triển béo phì tồn tại song song với thiếu dinh dưỡng, gặp nhiều ở thành phố hơn ở nông thôn. Ở Việt nam tỷ lệ thừa cân và béo phì khoảng 4% ở Hà nội (1995) và thành phố Hồ Chí Minh (2000)10,7% ở lứa tuổi 15-49 và 21,9% ở lứa tuổi 40-49.
Tỷ lệ béo phì ở trẻ học sinh tiểu học Hà nội là 4,2% (1996), và 12,2% ở thành phố Hồ Chí Minh (1997).
I. Béo phì là gì?
Béo phì là một tình trạng sức khoẻ có nguyên nhân dinh dưỡng. Thường thường một người trưởng thành khoẻ mạnh, dinh dưỡng hợp lý, cân nặng của họ đứng yên hoặc giao động trong giới hạn nhất định. Hiện nay Tổ chức Y tế thế giới thường dùng chỉ số khối có thể (BMI) để đánh giá tình trạng gây bệnh của cơ thể.
         Cân nặng (kg)
BMI  =  -------------------
           Chiều cao2 (m)
Người ta coi chỉ số BMI bình thường nên có ở giới hạn 20-25, trên 25 là thừa cân và trên 30 là béo phì.
Một điều cần chú ý nữa là vùng chất mỡ tập trung. Mỡ tập trung nhiều quanh vùng eo lưng tạo nên dáng người "quả táo tàu" thường được gọi là béo kiểu "trung tâm", kiểu phần trên hay béo kiểu dáng đàn ông và mỡ tập trung ở phần háng tạo nên vóc người "hình quả lê" hay còn gọi là béo phần thấp hay kiểu dáng đàn bà. Vì vậy bên cạnh theo dõi chỉ số BMI nên theo dõi thêm tỷ số vòng bụng/ vòng mông, khi tỉ số này vượt quá 0,9 ở nam giới và 0,8 ở nữ giới thì các nguy cơ tăng huyết áp, bệnh tim mạch, bệnh đái đường đều tăng lên rõ rệt.
Béo phì không tốt đối với sức khoẻ, người các béo các nguy cơ càng nhiều. Trước hết, người béo phì dễ mắc các bệnh tăng huyết áp, bệnh tim mạch do mạch vành, đái đường, hay bị các rối loại dạ dày, ruột, sỏi mật.
Béo phì có các tác hại và nguy cơ cụ thể là:
1. Mất thoải mái trong cuộc sống:
Người béo phì thường có cảm giác bức bối khó chịu về mùa hè do lớp mỡ dày đã trở thành như một hệ thống cách nhiệt. Người béo phì cũng thường xuyên cảm thấy mệt mỏi chung toàn thân, hay nhức đầu tê buốt ở hai chân làm cho cuộc sống thiếu thoải mái.
2. Giảm hiệu suất lao động:
Người béo phì làm việc chóng mệt nhất là ở môi trường nóng. Mặt khác do khối lượng cơ thể quá nặng nề nên để hoàn thành một động tác, một công việc trong lao động, người béo phì mất nhiều thì giờ hơn và mất nhiều công sức hơn. Hậu quả là hiệu suất lao động giảm rõ rệt so với người thường.
3. Kém lanh lợi:
Người béo phì thường phản ứng chậm chạp hơn người bình thường trong sinh hoạt cũng như trong lao động. Hậu quả là rất dễ bị tai nạn xe cộ cũng như tai nạn lao động.
4. Hai nguy cơ rõ rệt ở người béo phì:
4.1. Tỷ lệ bệnh tật cao:
  • ·         Béo phì là một trong các yếu tố nguy cơ chính của các bệnh mãn tính không lây như: Bệnh mạch vành, đái đường không phụ thuộc insulin, sỏi mật.
  • ·          Ở phụ nữ mãn kinh, các nguy cơ ung thư túi mật, ung thư vú và tử cung tăng lên ở những người béo phì, còn ở nam giới béo phì, bệnh ung thư thận và tuyến tiền liệt hay gặp hơn.
4.2. Tỷ lệ tử vong cũng cao hơn: nhất là trong các bệnh kể trên.
Thừa cân và béo phì còn làm giảm vẻ đẹp của mọi người.
II. Nguyên nhân của béo phì:
Mọi người đều biết cơ thể giữ được cân nặng ổn định là nhờ trạng thái cân bằng giữa năng lượng do thức ăn cung cấp và năng lượng tiêu hao cho lao động và các hoạt động khác của cơ thể. Cân nặng cơ thể tăng lên có thể do chế độ ăn dư thừa vượt quá nhu cầu hoặc do nếp sống làm việc tĩnh tại ít tiêu hao năng lượng.
Khi vào cơ thể, các chất protein, lipit, gluxit đều có thể chuyển thành chất béo dự trữ. Vì vậy, không nên coi ăn nhiều thịt, nhiều mỡ mới gây béo mà ăn quá thừa chất bột, đường, đồ ngọt đều có thể gây béo. Tóm lại có thể chia nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh của béo phì như sau:
1. Khẩu phần ăn và thói quen ăn uống:
Năng lượng (calo) đưa vào cơ thể qua thức ăn thức uống được hấp thu và được oxy hoá để tạo thành nhiệt lượng. Năng lượng ăn quá nhu cầu sẽ được dự trữ dưới dạng mỡ.
Chế độ ăn giàu chất béo (lipid) hoặc đậm độ nhiệt độ cao có liên quan chặt chẽ với gia tăng tỉ lệ béo phì. Các thức ăn giàu chất béo thường ngon nên người ta ăn quá thừa mà không biết. Vì vậy, khẩu phần nhiều mỡ, dù số lượng nhỏ cũng có thể gây thừa calo và tăng cân. Không chỉ ăn nhiều mỡ, thịt mà ăn nhiều chất bột, đường, đồ ngọt đều có thể gây béo. Việc thích ăn nhiều đường, ăn nhiều món sào, rán, những thức ăn nhanh nấu sẵn và miễn cưỡng ăn rau quả là một đặc trưng của trẻ béo phì. Thói quen ăn nhiều vào bữa tối cũng là một điểm khác nhau giữa người béo và không béo.


2. Hoạt động thể lực kém:
Cùng với yếu tố ăn uống, sự gia tăng tỉ lệ béo phì đi song song với sự giảm hoạt động thể lực trong một lối sống tĩnh tại hơn, thời gian dành cho xem tivi, đọc báo, làm việc bằng máy tính, nói chuyện qua điện thoại nhiều hơn.
Kiểu sống tĩnh tại cũng giữ vai trò quan trọng trong béo phì. Những người hoạt động thể lực nhiều thường ăn thức ăn giàu năng lượng, khi họ thay đổi lối sống, hoạt động nhưng vẫn giữ thói quen ăn nhiều cho nên bị béo. Điều này giải thích béo ở tuổi trung niên, hiện tượng béo phì ở các vận động viên sau khi giải nghệ và công nhân lao động chân tay có xu hướng béo phì khi về hưu.
3. Yếu tố di truyền:
Đáp ứng sinh nhiệt kém có thể do yếu tố di truyền. Yếu tố di truyền có vai trò nhất định đối với những trẻ béo phì thường có cha mẹ béo, tuy vậy nhìn trên đa số cộng đồng yếu tố này không lớn.
4. Yếu tố kinh tế xã hội:
Ở các nước đang phát triển, tỉ lệ người béo phì ở tầng lớp nghèo thường thấp (thiếu ăn, lao động chân tay nặng, phương tiện đi lại khó khăn) và béo phì thường được cọi là một đặc điểm của giàu có. Ở các nước đã phát triển khi thiếu ăn không còn phổ biến nữa thì tỉ lệ béo phì lại thường cao ở tầng lớp nghèo, ít học so với ở các tầng lớp trên.
Ở nhiều nước, tỷ lệ người béo lên tới 30-40%, nhất là ở độ tuổi trung niên và chống béo phì trở thành một mục tiêu sức khoẻ cộng đồng quan trọng. Ở Việt nam, tỷ lệ người béo còn thấp nhưng có khuynh hướng gia tăng nhanh nhất là ở các đô thị. Đó là điều cần được chú ý để có các can thiệp kịp thời.
Thực hiện một chế độ ăn uống hợp lý và hoạt động thể lực đúng mức để duy trì cân bặng ổn định ở người trưởng thành, đó là nguyên tắc cần thiết để tránh béo phì. Các biện pháp cụ thể là:
·          Chế độ ăn năng lượng (calo) thấp, cân đối, ít mỡ, ít đường, đủ đạm, vitamin, nhiều rau quả.
·          Luyện tập ở môi trường thoáng.
·          Xây dựng nếp sống năng động, tăng cường hoạt động thể lực.
III. Chế độ ăn cho người béo phì:
·          Giảm năng lượng của khẩu phần ăn từng bước một, mỗi tuần giảm khoảng 300 kcal so với khẩu phần ăn trước đó cho đến khi đạt năng lượng tương ứng đến mức BMI.
·          BMI từ 25-29,9 thì năng lượng đưa vào một ngày là 1500 kcal.
·          BMI từ 30-34,9 thì năng lượng đưa vào một ngày là 1200 kcal.
·          BMI từ 35-39,9 thì năng lượng đưa vào một ngày là 1000 kcal.
·          BMI ≥ 40 thì năng lượng đưa vào một ngày là 800 kcal.
·          Trong đó tỉ lệ năng lượng giữa các chất là 15-16% protein, 12-13% lipid, 71-72% glucid.
·          Ăn ít chất béo, bột.
·          Đủ chất đạm, vitamin, muối khoáng. Cần bổ sung viên đa vitamin và vi lượng tổng hợp.
·          Tăng cường rau và hoa quả.
·          Muối, mì chính: 6g/ngày. Nếu có tăng huyết áp thì chỉ cho 2-4g/ngày.
·          Tạo thói quen ăn uống theo đúng chế độ. 

_______________________
Bạn từng có vấn đề về sức khỏe như Huyết áp, tiểu đường, tim mạch, sỏi thận – sỏi mật, gút, viêm loét, thần kinh tọa, tai biến, ung thư …

Bạn từng mệt mỏi vì điều trị tại các Chuyên khoa- Bệnh viện lớn, Tốn rất nhiều tiền, dùng thuốc Đông – Tây Y nhưng kết quả vẫn không được như mong đợi.

Hãy một lần thử với dòng sản phẩm NONI JUICE của tập đoàn Quốc Tế TAHITIAN NONI INTERNATIONAL của Mỹ.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ BẠN CÓ MỘT SỨC KHỎE TUYỆT HẢO VÀ KHÔNG BAO GIỜ CÒN PHẢI LO LẮNG VỀ BỆNH TẬT CỦA MÌNH NỮA – SẢN PHẨM NONI JUICE CỦA TẬP ĐOÀN QUỐC TẾ TAHITIAN NONI SẼ GIÚP ĐƯỢC CHO BẠN. Mời vào xem ngay: http://www.BiQuyetSucKhoeTuyetHao.com
Đọc tiếp →

23 tháng 2, 2011

10 nguyên nhân gây béo phì


“Béo phì không hẳn do ăn uống hay lười hoạt động” là tuyên bố mới đây nhất của một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế.


Chỉ bằng cách quan sát, các bác sĩ thường kết luận thủ phạm của béo phì là do ăn quá nhiều. Đặc biệt, hầu như tất cả các bác sĩ, nhà khoa học đều lên án sự bành trướng của thị trường đồ ăn nhanh, thực phẩm ướp muối và việc ngồi trước màn hình TV thay vì luyện tập.
“Và trên thực tế, chúng ta đang phải trả giá cho sự chú ý quá lớn tới 2 thủ phạm này”, TS David B. Allison, giám đốc ĐH University Alabama, thuộc TT nghiên cứu dinh dưỡng Birmingham và các cộng sự khẳng định.
“Vai trò của 2 thủ phạm này luôn được thừa nhận và điều này đã khiến các nhà nghiên cứu “coi thường” những nhân tố được giả định khác. Vậy là các bác sĩ chỉ tập trung sự chú ý vào thói quen ăn uống cũng như khuyên bệnh nhân năng vận động nhưng kết quả là tỉ lệ béo phì không thuyên giảm là bao.
Phải thừa nhận rằng, lười hoạt động và đồ ăn nhanh có liên quan tới căn bệnh béo phì nhưng để chứng minh rằng chúng là nguyên nhân chủ yếu của căn bệnh này thì rõ ràng là vẫn mang tính “suy diễn””, TS Allison và các cộng sự cho biết.
Thậm chí ngay cả khi một số nguyên nhân dưới đây chỉ có ảnh hưởng rất nhỏ đến béo phì thì chúng cũng cần được xem xét một cách cẩn thận bởi sự tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau sẽ làm chứng béo phì trở nên trầm trọng và việc thay đổi chế độ ăn hay luyện tập không mang lại hiệu quả như mong đợi.
Nhằm khuyến khích một cuộc tranh luận sôi nổi, tìm ra nguyên nhân thực sự của căn bệnh béo phì đang ngày càng trở nên trầm trọng ở tất cả các quốc gia, TS Allison và các cộng sự đã đưa ra 10 nguyên nhân khác có thể dẫn tới béo phì và được đăng tải trên Tạp chí quốc tế về Béo phì:

10 nguyen nhan gay beo phi 
1. Ngủ quá ít. Nếu bạn bị mất ngủ thường xuyên hoặc bận rộn đến mức có rất ít thời gian để chợp mắt thì nguy cơ tăng cân trong tương lai là điều khó tránh khỏi.
2. Ô nhiễm. Một số loại hormone kiểm soát trọng lượng cơ thể. Môi trường ngày nay đang bị ô nhiễm bởi các chất thải từ xe cộ, động cơ… sẽ tác động rất lớn tới những hormone này.
3. Điều hòa không khí. Bạn có thể đốt cháy một lượng calo nếu môi trường quanh bạn quá nóng hay quá lạnh để điều hòa thân nhiệt. Tuy nhiên, nhiều người ngày nay sống và làm việc trong những ngôi nhà hay văn phòng mà nhiệt độ luôn được kiểm soát ở mức lý tưởng.
4. Bỏ thuốc lá. Hút thuốc cũng giúp giảm cân. Thế giới ngày càng có nhiều người bỏ thuốc lá và vì thế cũng ngày càng có nhiều người béo phì?
5. Thuốc men. Rất nhiều loại thuốc khác nhau, bao gồm thuốc ngừa thai, thuốc chứa hormone, thuốc tiểu đường, thuốc chống suy nhược và thuốc áp huyết cao... Đây là nguyên nhân gây ra sự thay đổi về cân nặng. Sử dụng những loại thuốc này sẽ khiến cân nặng của cơ thể có xu hướng đi lên.
6. Tuổi thọ và chủng tộc. Những người Trung Mỹ và những người Mỹ gốc Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha thường có xu hướng bị béo phì hơn những người Mỹ gốc Âu.
7. Mẹ nhiều tuổi. Đã có một số bằng chứng cho thấy những người phụ nữ lớn tuổi mới sinh con lần đầu thì đứa trẻ thường có nguy cơ bị béo phì cao hơn. Rất nhiều phụ nữ Mỹ sinh con lần đầu khi lớn tuổi thậm chí đã già.
8. Di truyền từ tổ tiên. Có một số ảnh hưởng sẽ tác dụng lên thế hệ thứ 2. Sự thay đổi của môi trường đã tác động đến bào thai và làm cho những gien di truyền của ông bà vốn đã bị "lặn" ở thế hệ cha mẹ trở thành "trội" ở thế hệ các cháu.
9. Béo phì liên quan đến khả năng sinh sản. Có một số bằng chứng cho thấy những người béo phì thường “mắn” hơn những phụ nữ gầy còm. Nếu như béo phì thực sự có liên quan đến di truyền học thì tỉ lệ người béo phì sẽ ngày càng gia tăng trong dân số chung của nhân loại.
10. Sự “liên minh” của những cặp béo phì. Những phụ nữ béo phì thường có xu hướng kết hôn với những nam giới thừa cân. Nếu những người gầy ngày càng ít đi và béo phì thực sự là do gien quy định thì thế giới này sẽ dần là của những người béo phì, quá khổ.
Ngoài danh sách những nguyên nhân dẫn tới tình trạng béo phì kể trên còn có một số nguyên nhân khác như: virus gây béo phì, tình trạng suy dinh dưỡng khi còn nhỏ, ít sử dụng các sản phẩm sữa và những hormone từ ngành nông nghiệp biến đổi gien...
Tất cả đang đợi được giải thích và chứng minh bởi các nhà khoa học trên toàn thế giới.

_____________________________________________________

Bạn từng có vấn đề về sức khỏe như Huyết áp, tiểu đường, tim mạch, sỏi thận – sỏi mật, gút, viêm loét, thần kinh tọa, tai biến, ung thư …

Bạn từng mệt mỏi vì điều trị tại các Chuyên khoa- Bệnh viện lớn, Tốn rất nhiều tiền, dùng thuốc Đông – Tây Y nhưng kết quả vẫn không được như mong đợi.

Hãy một lần thử với dòng sản phẩm NONI JUICE của tập đoàn Quốc Tế TAHITIAN NONI INTERNATIONAL của Mỹ.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ BẠN CÓ MỘT SỨC KHỎE TUYỆT HẢO VÀ KHÔNG BAO GIỜ CÒN PHẢI LO LẮNG VỀ BỆNH TẬT CỦA MÌNH NỮA – SẢN PHẨM NONI JUICE CỦA TẬP ĐOÀN QUỐC TẾ TAHITIAN NONI SẼ GIÚP ĐƯỢC CHO BẠN. Mời vào xem ngay: http://www.BiQuyetSucKhoeTuyetHao.com

Đọc tiếp →

16 tháng 2, 2011

Nước - “Thuốc” tốt phòng ngừa sỏi thận

Sỏi thận tiết niệu là bệnh lý rất thường gặp, do nhiều nguyên nhân gây nên. Trong thực tế lâm sàng thường phát hiện muộn nên nhiều biến chứng. Nguyên nhân tạo ra sỏi có nhiều nhưng trong đó có một lý do quan trọng là việc không đủ lượng dung dịch hòa tan các chất cặn bã hữu cơ và vô cơ đường tiết niệu. Vì vậy các chất này tích tụ lại và hình thành nên các viên sỏi.

Khi thiếu nước dễ tạo ra sỏi thận

Khi máu đi qua thận, máu đến cầu thận và nước sẽ thấm qua mạch máu vào khoang nhỏ gọi là khoang Bowman. Tại đây nước được chảy vào hệ thống ống thận dày đặc. Một phần nước sẽ được tái hấp thu lại, phần khác tiếp tục đi vào đường ống. Cuối cùng chúng được đổ vào một bể lớn gọi là bể thận, sau đó, từ thận nước tiểu được dẫn xuống bàng quang bằng một ống gọi là niệu quản, và từ bàng quang nước tiểu sẽ được thải ra ngoài qua niệu đạo. Quá trình tạo ra nước tiểu vô cùng phức tạp và có sự tham gia của rất nhiều yếu tố lý, hóa, thần kinh. Khi nước tiểu được tạo ra, chúng hòa tan các chất độc và “làm trôi” các chất cặn bã trên đường đi. Vì một lý do nào đó, số lượng nước không đủ hay có sự ứ trệ trên đường đi, các chất cần thải loại sẽ lắng lại, tích tụ theo thời gian và tạo thành sỏi.

Sỏi  hệ thống tiết niệu là  một cấu trúc phức tạp dạng rắn được tạo ra từ các chất vô cơ như calci, phospho và hữu cơ như ammonium, urat... cấu tạo của viên sỏi là một cấu trúc theo từng lớp đồng tâm. Sỏi tiết niệu có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng được phát hiện nhiều nhất là khoảng từ 20 đến 50 tuổi. Sỏi tiết niệu có thể gặp ở mọi vị trí trên đường đi của hệ thống tiết niệu. Có thể phân chia vị trí như sau: sỏi thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang, sỏi niệu đạo. Tuy nhiên, từng đoạn cũng lại qui định chi tiết hơn như ở thận có sỏi nhu mô thận, sỏi bể thận; ở niệu quản là sỏi 1/3 trên, sỏi 1/3 giữa, sỏi 1/3 dưới. Có thể chỉ bị sỏi ở một vị trí nhưng cũng có thể sỏi ở nhiều vị trí. Các loại sỏi: sỏi calcium oxalate: hay gặp nhất, gặp nhiều ở người trưởng thành hơn những người có sỏi calci thường có vấn đề tăng calci niệu và có liên quan tới yếu tố di truyền, bệnh tuyến cận giáp, mắc bệnh gút, các bệnh đường ruột, béo phì và bệnh thận. Sỏi struvite: cấu tạo bởi magne và ammoni. Thường thứ phát do nhiễm khuẩn  tiết niệu.  Đặc biệt là những người dẫn lưu ống thông đường niệu kéo dài. Sỏi uric: do biến loạn chuyển hóa làm tăng acid uric trong nước tiểu, sỏi cystine. Hiếm gặp, cấu trúc sỏi là amino acid cystine, đây là bệnh có tính di truyền.

Phòng tránh sỏi thận bằng cách uống nhiều nước

Sỏi niệu quản.
Để phòng tránh sỏi thận vì vậy phải uống thật nhiều nước. Nước được cung cấp đủ sẽ không chỉ làm máu lưu thông tốt hơn, hòa tan các chất mà còn làm nhiệt độ cơ thể được điều hòa tốt hơn đặc biệt trong mùa hè oi bức. Hơn thế nữa nó giúp thải trừ các chất cặn bã để ngăn ngừa bệnh tật. Nếu tính theo hoạt động bình thường của cơ thể thì lượng nước tiểu khoảng 1.500ml, lượng nước qua đường mồ hôi và đường tiêu hóa khoảng 500-1000ml, như vậy nhu cầu về nước là từ 1.500 đến 2.500 ml mỗi ngày. Nhu cầu này tăng lên hay giảm đi tùy theo tính chất công việc và đặc biệt là theo thời tiết. Tuy nhiên dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, xây dựng cho mình một thói quen uống nhiều nước là vô cùng hữu ích.

Nước uống cần đảm bảo vệ sinh. Trong thực tế có nhiều loại nước có thể sử dụng hàng ngày có lợi cho sức khỏe như các loại nước ép hoặc sinh tố làm từ cà rốt, cà chua, dưa leo, dưa hấu...; nước chanh cam chứa nhiều vitamin C, rất tốt cho da, giúp cơ thể thanh nhiệt, sát khuẩn, trị ho...; nước ngâm từ quả dâu, mơ hay sấu pha. Sữa chua là loại đồ uống không thể thiếu trong mùa hè, nhất là đối với chị em phụ nữ. Mùa hè nóng nực, khi lao động thể lực nhiều có thể thêm chút muối vào nước uống. Nước muối loãng giúp làm cơ thể bớt khát nước hơn và cung cấp muối mất qua mồ hôi.

Không nên uống các loại nước uống nhiều đường, nhất là đối với người béo phì, tiểu đường, tăng huyết áp. Hạn chế sử dụng nước đá vì nó có thể gây hỏng men răng.

Với một số trường hợp đặc biệt cần thận trọng khi uống nước như người bị suy tim, suy thận... chú ý phải hỏi  kỹ bác sĩ điều trị để có một chế độ nước phù hợp.

Đọc tiếp →